Thứ Tư, 1 tháng 3, 2017

GIỚI THIỆU TẬP THƠ CỦA TRƯƠNG HỮU THẢO

Trương Hữu Thảo: Người ghi dấu thi ca trên từng vùng đất


Tạo hóa luôn luôn diệu kỳ, bí ẩn và thiêng liêng khi tạo nên những kỳ quan, những vùng đất mang đặc trưng riêng làm nên những tên gọi. Để từ đó con người kiến tạo và tôn vinh thêm những gì vốn được tạo hóa và thiên nhiên ban tặng. Với người làm thơ thì những điều ấy càng trở nên đặc biệt, bởi mỗi nơi, mỗi tên gọi đều làm nên cảm hứng vô tận cho những vần thơ.
Nhà giáo Trương Hữu Thảo, người con của mảnh đất Quảng Trị, đã ở vào cái tuổi xưa nay hiếm nhưng những đam mê, khát vọng chinh phục từng mảnh đất với vẻ đẹp của non sông đất nước vẫn rạo rực trong tâm hồn thi sĩ của ông. Bởi người làm thơ có bao giờ chịu ngồi yên, hay thậm chí dù lúc ngồi yên thì trí tưởng vẫn dẫn dụ người làm thơ đi xa lắm. Thế nên, tập thơ “Giang sơn gấm hoa” là bức tranh sinh động vẽ dải đất hình chữ S thân yêu bằng những ngôn từ của nghệ thuật thi ca.

Bằng cách này hay cách khác, bằng cảm xúc này hay rung động khác nhà giáo Trương Hữu Thảo đã khắc họa các địa danh đất nước trên điểm nhìn của văn hóa, của lịch sử, của xã hội, của truyền thuyết… hay đơn giản là bắt đầu từ những hồi ức, kỷ niệm của chính bản thân tác giả. Trong khuôn khổ một bài viết nhỏ, xin điểm qua một số vùng đất mà thơ Trương Hữu Thảo tha thiết.
Bắt đầu từ ngôi trường giàu truyền thống của đất thành Vinh - Nghệ An, nơi đó tác giả đã có nhiều kỷ niệm của tình bạn và nghĩa thày trò. Chính nơi đó đã chắp cánh, dẫn đường cho những giấc mơ tuổi trẻ trong ông bay cao, bay xa. Trong lễ hội của trường, với sự hội tụ của những gương mặt, những thế hệ, cảm xúc rưng rưng và lòng biết ơn sâu nặng đã khiến ông viết nên những câu thơ:
Môn sinh luôn nhớ một ngôi trường
Tình bạn, nghĩa thầy mãi mến thương
Đất Nghệ – Thành Vinh trường mở lối
Sông Lam – Bến Thủy Đảng đưa đường
(Trường Đại học Vinh)
Những câu thơ ngắn gọn, hàm súc nhưng đã gửi gắm được trọn vẹn cái tình của người viết trong đó, bao hàm cả sự khắc ghi.
Cùng trên dải đất miền Trung anh dũng kiên cường, tác giả Trương Hữu Thảo đặc biệt dành tình cảm để viết về quê hương Đại tướng Võ Nguyên Giáp với những vần thơ trữ tình:
Ai về Lệ Thủy Kiến Giang
Đến làng An Xá bên hàng tre xanh
Quảng Bình Nhật Lệ sông Gianh
Thăm nhà ‘‘anh Cả’’ sáng danh một thời
(Kiệt xuất lừng danh)
Những câu thơ như dẫn dụ, như mời gọi ấy gợi người đọc liên tưởng đến làng quê nơi người “anh Cả” của dân tộc đã được sinh ra. Cũng bình dị như bao làng quê khác, nhưng qua thơ Trương Hữu Thảo ta thấy bừng lên một vẻ đẹp khác nữa, có lẽ đó là vẻ đẹp do chính Người mang lại, vẻ đẹp của người con kiệt xuất, anh hùng đã lan tỏa trên chính quê hương này. Và bên cạnh đó, trên mảnh đất Quảng Bình với địa danh Nhật Lệ ta cũng thấy thật lộng lẫy, mà thật yên bình với vẻ đẹp của một vùng biển mùa thu, và vẻ đẹp của lao động, của cuộc sống ngư dân nơi đây.
Lâu rồi có dịp về thăm
Nhật Lệ sông nước ngày rằm đầy trăng
Thuyền nan lộng gió buồm căng
Ngư dân ra biển lưới giăng cá đầy
Trời xanh gợn gợn chút mây
Mái chèo nhẹ đẩy, bóng cây xa dần
(Nhật Lệ thu)

Và đây nữa, hẳn nhà giáo Trương Hữu Thảo phải có câu chuyện, hay mối duyên nào thầm kín và dang dở nơi đây.
Về Đồng Hới một chiều mưa
Nắng vàng dịu tắt, vườn dừa gió lay
Nhật Lệ gió cuốn mây bay
Mưa rơi nặng hạt suốt ngày ủ ê
Về đây vắng bóng tóc thề
Người đi, đi mãi, hẹn về kiếp sau…
(Kỷ niệm xưa)
Một vùng đất một lần đến cũng ít nhiều cảm xúc đầy vơi, nói chi đến ở nơi ấy ta còn một bóng hình để thương để nhớ. Điều này làm nên những bâng khuâng, man mác trong lòng người đọc thơ ông.
Lịch sử hào hùng, bi tráng và cũng đầy đau thương của dân tộc được nhắc đến trong những vần thơ nhà giáo Trương Hữu Thảo viết về Quảng Trị, quê hương của ông.

Một lần Bến Hải lệ sa
Ba mươi năm ấy nước nhà đau thương
Cửa Tùng, Bến Hải, Hiền Lương
Dòng sông chia cắt đôi đường Việt Nam
(Quảng Trị mình ơi)
Vâng, dòng sông Bến Hải, nơi đây từng ghi dấu sự chia cắt của đất nước ta, nơi đây bao máu xương và nước mắt đã đổ xuống. Trước sự chia cắt đất nước, dân tộc là sự chia ly của mỗi gia đình, mỗi làng xóm và những mối tình, những lứa đôi. Lịch sử vẫn ghi lại, và thơ ca Trương Hữu Thảo không thôi nhắc nhớ về những gì mảnh đất này đã trải qua. Và trên quê hương mình, thơ Trương Hữu Thảo dường như thăng hoa hơn để chạm đến thẳm sâu cảm xúc người đọc
Ai về Quảng Trị kiên cường
Làng Mai – quê mẹ yêu thương trọn đời
(Làng Mai)
Nhớ làng những buổi bình minh
Chợ Mai mua bán lượn quanh lắm hàng
Nhớ năm giặc Pháp quây càn
Đầu bêu giữa chợ oán hờn tận mây.
Nhớ bao con gái, con trai
Quên mình ngã xuống có ngày hôm nay.
(Nhớ quê)
Chúng ta sẽ còn nhớ mãi về một làng Mai kiên trung, anh dũng với những người con gái, con trai đẹp đẽ từ nơi tâm hồn và hiên ngang, bất khuất trong vóc dáng họ ngã xuống vì quê hương.
Không thể không nhắc đến Huế, một địa danh lịch sử, văn hóa của đất nước. Và ta thật ấn tượng với câu thơ :
Đừng vào xứ Huế một mình
Làm sao xóa hết chuỗi tình năm xưa.
(Huế mến thương)
Có gì đó mà ta cần sự giải nghĩa từ chính người viết. Câu thơ hay và tài hoa bởi cái kết mở ra nhiều chiều suy tưởng cho người đọc và Trương Hữu Thảo đã làm cho Huế thâm trầm ngàn xưa càng trở nên bí ẩn, mông lung biết chừng nào.
Với phố cổ Hội An, tác giả khơi gợi lại trong ta về một thời vàng son, đô hội trên bến dưới thuyền. Dẫu chỉ lại gợi lại vẫn đủ để ta thấy vẻ đẹp của Hội An với những gì ngày nay còn lưu giữ và tái tạo. Câu thơ khái quát nhưng đã ghi lại được thần thái, đặc trưng riêng của nơi đây.
Đèn lồng lắm kiểu cứ xoay tròn
Bốn cột nhà rường đẹp nước non
Du khách thập phương như sống lại
Phố xưa nhộn nhịp những thuyền buôn
(Phố Cổ Hội An)
Và Đà Nẵng, điểm sáng của đất nước về du lịch, văn hóa, văn minh được tác giả xem như một đóa hoa thơm. Không cầu kỳ ví von, hay khoa trương ngôn ngữ, một câu ví bình dị nhưng đúng và đắt.
Bà Nà, Phố Cổ, Ngũ hành Sơn,
Bán đảo Sơn Trà ... đâu đẹp hơn?
Bến Cảng, chợ Cồn, kia đỉnh Tháp
Miền Trung - Đà Nẵng - đóa hoa thơm
(Đà Nẵng)

Sự hàm ẩn trong thơ Trương Hữu Thảo thực sự mang lại hiệu quả nghệ thuật trong những bài thơ tả cảnh ngụ tình. Và thật bất ngờ khi ông viết về cảnh đẹp mà ta thấy trong đó là cả sự chở che, bao dung mà thiên nhiên ưu ái cho con người.

Mũi đá dài thon giữa biển Đông
Quanh năm sóng vỗ nước mênh mông
Bờ cao gặp bão thuyền vào né
Che chở ngư dân, ửng nắng hồng
(Mũi Né)
Không phải ngẫu nhiên mà người viết ca ngợi một phong cảnh, người làm thơ luôn nhìn thấy xa hơn và sâu hơn những gì đang diễn ra, đang ở trước mắt. Đó là cái nhìn nghệ thuật, và hơn nữa là ý thức sâu xa về vũ trụ và tạo hóa.
Vùng đất Tây Nguyên xa xôi và huyền bí luôn là đề tài bất tận của các nhà thơ. Mỗi người viết đi tìm cảm hứng theo những cảm xúc rất riêng. Với Trương Hữu Thảo ông đi theo mạch ngầm cảm xúc của một nỗi niềm thương nhớ khó gọi thành tên:
Mưa rừng gió núi đồi hoa vắng
Có biết Thăng Long ai ngóng trông.
Từ hai nơi, hai đầu nỗi nhớ thăm thẳm là một chữ ai tha thiết, trữ tình. Để dẫu mưa rừng, gió núi hay đồi hoa kia cũng trở thành một điểm nhấn đầy đa mang với người ở đất Thăng Long kinh kỳ. Dường chư cái sự cách xa của địa lý làm nên cái thơ mộng của điều gì thầm kín. Đó là khoảng riêng mà người viết còn lưu giữ trong lòng. Và bởi không phải điều gì cũng có thể cảm nhận rõ ràng như vị cà phê đậm chất Tây Nguyên:
Cà phê Đắc Lắc vị thơm ngon
Mấy túi mang về với lộc non
Vài cốc bên hè lòng thỏa ước
Nặng tình thêm nghĩa một lòng son.
Đó chính là hương vị đặc trưng cho núi rừng và con người của Tây Nguyên. Chợt nhớ nhà thơ Chế Lan Viên từng viết: “Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương”. Tây Nguyên cũng đã để lại trong lòng nhà giáo Trương Hữu Thảo một chữ tình nặng sâu.
Và tất nhiên sẽ là khuyết thiếu nếu không nhắc đến những vần thơ về Đà Lạt mộng mơ với những vẻ đẹp của một xứ sương mù, nơi ghi dấu bao kiệt tác của thi ca, nhạc, họa… Tác giả Trương Hữu Thảo bày tỏ nỗi niềm khi đến nơi được lưu lại câu chuyện tình yêu:
Còn đó, đồi thông hai mộ xưa
Lê chân lạnh lẽo dưới cơn mưa
Lưng đồi hai mộ ai hương khói
Bởi chết chung tình lắm kẻ đưa!
(Đồi thông hai mộ)
Một sự tưởng nhớ người xưa, sự rung cảm về mối tình truyền lại, và có chút gì xót xa, ngang trái chăng khi cảnh vật còn gợi về quá vãng, mà nỗi đau của người xưa, người nay như còn tiếp nối. Và còn biết bao những mối tình dở dang? Sự nhạy cảm, tinh tế của nhà giáo khi đứng trước khói hương xưa đã viết nên những vần thơ mang nặng nỗi niềm.
Vẻ đẹp của Đà Lạt có thể gợi những nỗi buồn nhưng cũng bừng lên sự hùng vĩ khiến lòng  bao mặc khách thi nhân bồi hồi:
Cam Ly thác đổ giữa lưng đồi
Dòng nước long lanh sóng cuộn trôi
Thăm thẳm dốc đèo khe uốn lượn
Trời cao đất rộng dạ bồi hồi
(Thác Cam Ly)
Đứng giữa trời và đất, hồn thơ Trương Hữu Thảo bay bổng và phiêu du đến tận những chân trời nào để những vần thơ thanh thoát, bồng bềnh như khắc họa lại chính cảnh vật nơi đây một cách chân thực và sống động nhất. Cảnh đẹp, thơ hay, quan trong nhất chính bởi lòng người. Với một tâm hồn quảng giao, phóng khoáng, lãng đãng và luôn chứa đầy thi hứng đã đem lại cho người đọc bao tứ thơ, bao giai điệu đẹp và sâu như những nốt nhạc được thoát ra từ phím dương cầm của người nghệ sĩ tài hoa.
Nói bao nhiêu cũng là chưa đủ để dẫn dắt bạn đọc đi hết những nhịp cầu thi ca mà Trương Hữu Thảo đã kiến tạo nên trên những địa danh của đất nước. Bởi nơi đâu ông qua cũng đều ghi dấu lại ít nhất một đôi vần. Bước vào thế giới thơ ca của ông trong tập thơ “Giang Sơn gấm hoa” để được thưởng lãm những gì thi vị và tinh tế nhất từ những nơi mà đôi mắt và bước chân thi nhân đã đi qua.
BBT Thi đàn Việt Nam

Không có nhận xét nào: